Trang chủ / Những trường hợp thành viên hợp danh bị mất tư cách từ 2021

Những trường hợp thành viên hợp danh bị mất tư cách từ 2021

04/12/2020


Luật Doanh nghiệp 2020 đã được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2020. Với nhiều quy định mới so với Luật Doanh nghiệp hiện hành. Bổ sung thêm trường hợp thành viên hợp danh bị mất tư cách là một trong những điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp 2020.

Cụ thể tại Điều 185 Luật Doanh nghiệp 2020, thành viên hợp danh bị chấm dứt tư cách trong trường hợp sau đây:

Thứ nhất: Tự nguyện rút vốn khỏi công ty

Theo đó, thành viên có quyền út vốn khỏi công ty nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận. Đồng thời, thành viên muốn rút vốn khỏi công ty phải thông báo bằng văn bản yêu cầu rút vốn chậm nhất là 06 tháng trước ngày rút vốn; chỉ được rút vốn vào thời điểm kết thúc năm tài chính và báo cáo tài chính của năm tài chính đó đã được thông qua.

Thứ hai: Chết, mất tích, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Đối với trường hợp chấm dứt tư cách thành viên của thành viên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phần vốn góp của thành viên đó được hoàn trả công bằng và thỏa đáng.

Trong đó, tại Bộ luật Dân sự 2015 quy định  người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi như sau:

  • Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần;
  • Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ;
  • Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Thứ ba: Bị khai trừ khỏi công ty

Thành viên hợp danh bị khai trừ khỏi công ty trong trường hợp sau đây:

- Không có khả năng góp vốn hoặc không góp vốn như đã cam kết sau khi công ty đã có yêu cầu lần thứ hai.

- Vi phạm quy định về hạn chế quyền đối với thành viên hợp danh, cụ thể:

  • Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân; không được làm thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại;
  • Thành viên hợp danh không được nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
  • Thành viên hợp danh không được chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho tổ chức, cá nhân khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại.

-  Tiến hành công việc kinh doanh không trung thực, không cẩn trọng hoặc có hành vi không thích hợp khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của công ty và thành viên khác.

- Không thực hiện đúng nghĩa vụ của thành viên hợp danh.

Thứ tư: Chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định của pháp luật

Thứ năm: Các trường hợp khác do Điều lệ công ty quy định.

Như vậy, theo quy định trên, có 05 trường hợp thành viên hợp danh bị chấm dứt tư cách thành viên trong công ty hợp danh. Có thể thấy, so với quy định hiện hành, Luật Doanh nghiệp 2020 đã bổ sung thêm trường hợp thành viên hợp danh sẽ chấm dứt tư cách thành viên trong trường hợp chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định của pháp luật.

 Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.